Tê tê hay còn gọi là trút, xuyên sơn, là các loài động vật có vú thuộc Bộ Tê tê (Pholidota).
Bộ Tê tê hiện nay chỉ còn một họ Manidae, có một chi Manis bao gồm tám loài.
Thân tê tê có vảy lớn và cứng. Chúng là loài hút kiến sinh sống ở miền nhiệt đới Á châu và Phi châu. Phần lớn các loại tê tê sinh hoạt vào ban đêm, dùng khứu giác rất thính để tìm côn trùng. Ban ngày thì cuộn tròn như quả banh để ngủ
Đặc điểm
Toàn thân tê tê có lớp vảy cứng bao bọc, chỉ chừa phần phía bụng. Mép vảy sắc và nhọn để giúp việc phòng thủ. Vảy cấu tạo bằng chất keratin giống như móng vuốt, sừng, và lông các động vật có vú khác. Khi mới sinh ra, vảy tê tê mềm nhưng rồi cứng dần với thời gian. Chúng còn tự vệ bằng cách xịt dung dịch axit hôi từ tuyến gần hậu môn.
Tê tê có móng dài và cứng; móng hai chân trước được dùng để phá tổ côn trùng tìm thức ăn. Vì móng dài nên chúng không đi bằng cách đạp chân xuống đất mà ngược lại, tê tê di chuyển bằng cách co hai chân trước lại và giẫm lên mu bàn chân. Miệng chúng không có răng; thức ăn chủ yếu làkiến và mối. Chúng dùng lưỡi dài (đến 40 cm) với nước dãi rất dính để bắt mồi. Cuống lưỡi nằm sâu trong lồng bụng.
Phần đuôi tê tê có khả năng nắm bắt được để giúp vin vào cành cây khi leo trèo.
Các loài tê tê đo được từ 30 đến 100 cm. Con cái thường nhỏ hơn con đực. Chúng làm ổ trong những hốc cây rỗng hay đào hang sâu dưới đất.
Sinh sản
Tê tê mang thai khoảng 120-150 ngày, đẻ lứa từ một (tê tê châu Phi ) đến ba con (tê tê châu Á ). Tê tê con cân từ 80-450 g. Chúng bám vào đuôi mẹ nhưng cũng có loài tê tê ẩn trong hang đến 2-4 tuần thì mới ra ngoài. Chúng thôi sữa ở khoảng ba tháng và đến hai tuổi thì trưởng thành, có thể sinh sản được.
Phân loại
Các loài tê tê ở Phi lẫn Á châu đều bị con người săn bắn lấy thịt. Bên Trung Hoa thịt tê tê được coi là cao lương bổ ích, giúp điều hòa lưu huyết và tăng lượng sữa cho sản phụ nên bán rất được giá. Mối đe dọa này cùng với nạn phá rừng đã làm giảm số tê tê, nhất là loại Manis gigantea. Tuy nhiên tất cả các loài tê tê đều không thuộc dạng cần bảo tồn xét theo Liên hiệp Quốc tế bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên.
Nguồn wikipedia
Bộ Tê tê hiện nay chỉ còn một họ Manidae, có một chi Manis bao gồm tám loài.
Thân tê tê có vảy lớn và cứng. Chúng là loài hút kiến sinh sống ở miền nhiệt đới Á châu và Phi châu. Phần lớn các loại tê tê sinh hoạt vào ban đêm, dùng khứu giác rất thính để tìm côn trùng. Ban ngày thì cuộn tròn như quả banh để ngủ
Đặc điểm
Toàn thân tê tê có lớp vảy cứng bao bọc, chỉ chừa phần phía bụng. Mép vảy sắc và nhọn để giúp việc phòng thủ. Vảy cấu tạo bằng chất keratin giống như móng vuốt, sừng, và lông các động vật có vú khác. Khi mới sinh ra, vảy tê tê mềm nhưng rồi cứng dần với thời gian. Chúng còn tự vệ bằng cách xịt dung dịch axit hôi từ tuyến gần hậu môn.
Tê tê có móng dài và cứng; móng hai chân trước được dùng để phá tổ côn trùng tìm thức ăn. Vì móng dài nên chúng không đi bằng cách đạp chân xuống đất mà ngược lại, tê tê di chuyển bằng cách co hai chân trước lại và giẫm lên mu bàn chân. Miệng chúng không có răng; thức ăn chủ yếu làkiến và mối. Chúng dùng lưỡi dài (đến 40 cm) với nước dãi rất dính để bắt mồi. Cuống lưỡi nằm sâu trong lồng bụng.
Phần đuôi tê tê có khả năng nắm bắt được để giúp vin vào cành cây khi leo trèo.
Các loài tê tê đo được từ 30 đến 100 cm. Con cái thường nhỏ hơn con đực. Chúng làm ổ trong những hốc cây rỗng hay đào hang sâu dưới đất.
Sinh sản
Tê tê mang thai khoảng 120-150 ngày, đẻ lứa từ một (tê tê châu Phi ) đến ba con (tê tê châu Á ). Tê tê con cân từ 80-450 g. Chúng bám vào đuôi mẹ nhưng cũng có loài tê tê ẩn trong hang đến 2-4 tuần thì mới ra ngoài. Chúng thôi sữa ở khoảng ba tháng và đến hai tuổi thì trưởng thành, có thể sinh sản được.
Phân loại
- Bộ PHOLIDOTA
Họ †Epoicotheriidae Đã tuyệt chủng - Họ †Metacheiromyidae Đã tuyệt chủng
- Họ Manidae
- Phân họ †Eurotamanduinae Đã tuyệt chủng
- Chi †Eurotamandua Đã tuyệt chủng
- Chi †Cryptomanis Đã tuyệt chủng
- Chi †Eomanis Đã tuyệt chủng
- Chi †Necromanis Đã tuyệt chủng
- Chi †Patriomanis Đã tuyệt chủng
- Chi Manis
- Phân chi Manis
- Tê tê Ấn Độ (M. crassicaudata)
- Tê tê Trung Quốc (M. pentadactyla)
- Tê tê Java (M. javanica)
- Tê tê Philippine (M. culionensis)
- Tê tê Khổng lồ (M. gigantea)
- Tê tê Ground (M. temmincki)
- Tê tê cây (M. tricuspis)
- Tê tê đuôi dài (M. tetradactyla)
Các loài tê tê ở Phi lẫn Á châu đều bị con người săn bắn lấy thịt. Bên Trung Hoa thịt tê tê được coi là cao lương bổ ích, giúp điều hòa lưu huyết và tăng lượng sữa cho sản phụ nên bán rất được giá. Mối đe dọa này cùng với nạn phá rừng đã làm giảm số tê tê, nhất là loại Manis gigantea. Tuy nhiên tất cả các loài tê tê đều không thuộc dạng cần bảo tồn xét theo Liên hiệp Quốc tế bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên.
Nguồn wikipedia