• Ban Quản Trị cộng đồng Yeuthucung.com xin gửi lời chúc mừng năm mới 2020 đến toàn thể các bạn & gia đình, cùng nhau đón một năm thành công, thịnh vượng, hạnh phúc.

Thông tin về Gấu

BanhMi

Super Moderator
Super Moderator
Gấu ngựa (Ursus thibetanus hay Ursus tibetanus), còn được biết đến với tên gọi Gấu đen Tây Tạng, Gấu đen Himalaya, hay gấu đen châu Á, là loài gấu kích thước trung bình, vuốt sắc, màu đen với hình chữ "V" đặc trưng màu trắng hay kem trên ngực. Loài gấu này có quan hệ họ hàng rất gần với gấu đen Mỹ, người ta tin rằng chúng có chung nguồn gốc tổ tiên ở châu Âu.
Phân bố

Gấu ngựa có khu vực sinh sống trải rộng từ đông sang tây châu Á. Chúng có thể tìm thấy trong các cánh rừng của những khu vực đồi núi ở Đông Á và Nam Á, bao gồm Afghanistan, Pakistan, bắc Ấn Độ, Nepal, Sikkim, Bhutan, Myanma, đông bắc Trung Quốc, Đài Loan hay Nhật Bản. Chúng có thể sống trong những khu vực lên tới cao độ 3.000 m (9.900 ft), cũng như ở những vùng đất thấp. Ở một vài khu vực, chúng chia sẻ nơi sinh sống với gấu nâu (Ursus arctos) là loài to hơn và khỏe hơn. Tuy nhiên, gấu ngựa có ưu thế trước kẻ cạnh tranh: khả năng leo trèo giỏi của nó giúp nó lấy được hoa quả và các loại hạt trên cây. Nó cũng chia sẻ nơi sinh sống với gấu trúc Trung Quốc, ví dụ ở khu bảo tồn Wolong, Trung Quốc, là nơi chúng sống rất ít. Nòi gấu ngựa tìm thấy ở Đài Loan là nòi gấu đen Đài Loan.
Cá điểm

Gấu ngựa dài khoảng 1,30 - 1,90 m. Con đực cân nặng khoảng 110 - 150 kg và con cái là khoảng 65 - 90 kg. Tuổi thọ khoảng 25 năm. Gấu ngựa là loài ăn tạp, chúng ăn các loại thức ăn như hoa quả, quả mọng, cỏ, hạt, quả hạch, động vật thân mềm, mật ong và thịt (cá, chim, động vật gặm nhấm cũng như các động vật có vú nhỏ hay xác súc vật). Gấu ngựa là loài ăn thịt nhiều hơn anh em của nó là gấu đen Mỹ; tuy nhiên thịt chỉ là một phần nhỏ trong khẩu phần của chúng.

Gấu ngựa còn được biết đến như là những con thú rất hung hăng đối với con người (hơn nhiều so với gấu đen Mỹ); có rất nhiều ghi chép về các cuộc tấn công gây thương vong của gấu ngựa. Điều này có lẽ chủ yếu là do gấu ngựa sống gần với con người và tấn công khi nó bị giật mình.

Gấu ngựa được đưa vào danh sách trong sách đỏ của IUCN (Hiệp hội bảo tồn thế giới) như là loài dễ bị thương tổn trong số các động vật đang bị đe dọa. Chúng bị đe dọa chủ yếu là do phá rừng và mất chỗ sinh sống. Gấu ngựa cũng bị giết bởi nông dân vì mối đe dọa của chúng đối với gia súc, gia cầm và chúng cũng không được yêu thích do tập tính hay bóc vỏ cây của chúng làm giảm giá trị của cây trồng. Một vấn đề khác mà gấu ngựa phải đối mặt là chúng thông thường hay bị săn để lấy mật, là chất được sử dụng trong y học Trung Hoa. Do Trung Quốc cấm việc săn bắt gấu ngựa từ những năm 1980, mật gấu được cung cấp tới tay người tiêu dùng bởi các trại nuôi gấu đặc biệt, ở đó gấu bị nuôi nhốt trong chuồng và mật gấu bị rút theo định kỳ bằng cách hút mật theo các ống kim tiêm sau khi gấu bị gây mê. Những người ủng hộ cho việc này cho rằng nếu không có các trang trại như vậy thì do nhu cầu về mật gấu là cao nên việc săn bắn trộm sẽ gia tăng và càng làm cho loài gấu vốn đã gặp nguy hiểm lại càng thêm nguy hiểm trong họa diệt chủng. Những người phê phán thì cho rằng việc này là độc ác và vô nhân đạo, hay mật gấu tổng hợp (axít ursodeoxycholic), cũng có hiệu quả y học như mật gấu thật và trên thực tế là rẻ tiền hơn nhiều.

Mật gấu

Mật gấu còn gọi là hùng đởm, tên khoa học: Fel ursi, thuộc họ gấu (Ursidae).

* Thành phần hóa học: Mật gấu có muối kim loại và các acid cholic, cholesterol, sắc tố mật như bilirubin.

* Tác dụng: Tính vị, qui kinh, vị đắng. Tính hàn, vào 3 kinh: Tâm, can và vị; thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, đinh nhĩ, ác thương, chữa đau răng, viêm mắt, hoàng đản, lỵ, hồi hộp, chân tay co quắp, đau dạ dày, giúp tiêu hóa, sỏi mật, gãy xương. Đặc biệt mật gấu ngựa có tác dụng chữa bệnh xơ gan, do có chứa axit ursodeoxycholic (UDC) (20% trọng lượng), khác với mật gấu chó gần như không có UDC mà chỉ có axit chenodeoxycholic (CDC).

Theo các kết quả nghiên cứu gần đây nhất, mật gấu ngựa còn có tác dụng trong việc điều trị bệnh ung thư, do tác dụng vào các tế bào ung thư làm cho các loại thuốc chữa ung thư dễ ngấm vào khối u hơn.

* Bảo quản: Mật gấu là tiêu mật phơi khô hay sấy khô của nhiều loài gấu. Phải phơi khô trong mát, sau đó gói kín để vào hộp có chứa chất hút ẩm.
* Cánh thử mật gấu để biết thật giả:
o Khi nếm mật, lúc đầu có vị đắng, sau đó ngọt mát và dính lưỡi, ngậm lâu sẽ tan hết. Còn các loại mật khác có vị đắng nhưng không mát, không dính lưỡi, có mùi tanh, khó ngửi.
o Lấy vài hạt mật gấu thả trên mặt nước sẽ thấy có những sợi màu vàng thòng thẳng xuống đáy bát nước.
o Mật gấu đốt không cháy.
o Mật gấu tốt nhất có màu vàng, trung bình thì màu đồng, màu ánh xanh như thép. Kém nhất là mật màu xanh.

Các nòi gấu ngựa:

* Ursus thibetanus formosanus - ở Đài Loan
* Ursus thibetanus gedrosianus - ở Iran và Pakistan
* Urus thibetanus japonica - ở Nhật Bản
* Ursus thibetanus laniger - ở Afghanistan và nam Trung Quốc
* Ursus thibetanus mupinensis - ở tây nam Trung Quốc
* Ursus thibetanus thibetanus - ở Himalaya và Đông Dương
* Ursus thibetanus ussuricu - ở đông bắc Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên


Gấu chó (danh pháp khoa học: Helarctos malayanus, từ đồng nghĩa: Ursus malayanus), được tìm thấy chủ yếu trong các rừng mưa nhiệt đới ở khu vực Đông Nam Á.
Gấu chó có chiều dài khoảng 1,2 m (4 ft), chiều cao khoảng 0,7 m -do đó chúng là loài nhỏ nhất của họ Gấu. Nó có đuôi ngắn, khoảng 3-7 cm (2 inch) và trung bình nặng không quá 65 kg (145 pao). Gấu chó đực nặng hơn một chút so với gấu cái.
Đặc trưng

Không giống như các loài gấu khác, lông của chúng ngắn và mượt. Điều này có lẽ là do môi trường sống của chúng là những vùng đất thấp nóng ẩm. Màu lông của chúng là đen sẫm hay hay nâu đen, ngoại trừ phần ngực có màu vàng-da cam nhạt có hình dạng giống như móng ngựa hoặc hình chữ U. Màu lông tương tự có thể tìm thấy xung quanh mõm và mắt.

Gấu chó có vuốt có dạng lưỡi liềm, tương đối nhẹ về khối lượng. Chúng có bàn chân to với gan bàn chân trần, có lẽ là để hỗ trợ việc leo trèo. Chân chúng hướng vào trong nên bước đi của chúng giống như đi vòng kiềng, nhưng chúng là những con vật leo trèo giỏi.

Chúng có tai ngắn và tròn, mõm ngắn.

Là một con vật ăn đêm là chủ yếu, gấu chó thích tắm nắng hay nghỉ ngơi về ban ngày trên các cành cây to cách mặt đất khoảng 2-7 mét. Vì chúng tiêu hao nhiều thời gian ở trên cây, gấu chó đôi khi làm tổn thất nặng nề cho các loại cây trồng. Chúng được coi là những kẻ phá hoại dừa và ca cao trong các đồn điền. Tập tính này là nguyên nhân làm giảm số lượng của quần thể gấu chó cũng giống như việc săn bắn để lấy lông và mật để sử dụng trong y học Trung Hoa.

Thức ăn của gấu chó dao động rất rộng và bao gồm các động vật có xương sống nhỏ như thằn lằn, chim, hay các loài động vật có vú khác, cũng như hoa quả, trứng, mối, ngọn non cây dừa, mật ong, quả mọng, chồi cây, côn trùng, rễ cây, quả của ca cao hay dừa. Hàm răng đầy sức mạnh của chúng có thể phá vỡ những quả dừa. Phần lớn thức ăn của gấu chó là nhờ vào khứu giác của chúng vì mắt của chúng rất kém.


Khu vực sinh sống

Chúng sống ở phía đông dãy Himalaya đến Tứ Xuyên ở Trung Quốc, cũng như trải rộng về phía nam tới Myanmar, một phần của bán đảo Đông Dương và Malaysia.
Sinh sản

Vì gấu chó không ngủ đông, nên chúng có thể sinh đẻ quanh năm. Chúng thông thường đẻ 2 con với trọng lượng khi sinh khoảng 280 - 340 g (10-12 aoxơ) mỗi con. Chu kỳ mang thai khoảng 96 ngày, nhưng chúng cho con bú khoảng 18 tháng. Gấu đạt đến độ tuổi trưởng thành sau khoảng 3-4 năm, và chúng sống đến 28 năm trong điều kiện bị giam cầm.
 
Top